HẾT TẾT
Thế là hết tết , nó đến ào rồi qua nhanh và kém phần lay động hớn hở xuân thì như những tết xưa . Hoa vẫn nở tràn trên phố chuẩn bị cho rằm tháng giêng sắp đến , người người vẫn đi lại xe cộ như nước mà cứ thấy trống vắng , thiếu nhiều thứ không thể mua được .
Bóng dáng một cái tết ông đồ ngày xưa gần như biến mất , cây nêu câu đối và những kiêng kỵ tập tục ít thấy người ta nhắc đến ..… Ngày nay tết dân gian ( và tết tây) cùng mong nhất là được nghỉ nhiều ,nghỉ ngơi đi du lịch . Còn sắm tết, ăn tết ,chơi tết , xuất hành ….chả mấy ai phải bận lòng vì gộp vào thành là nghỉ tết , thiếu thứ nào cũng chẳng sao .Thậm chí có nhà chẳng buồn mua sắm gì kể cả cành mai cành đào chứ không nói cúng giao thừa , cúng mùng một hóa vàng mùng ba …. Nhà khá giả thì bay cả nhà ra nước ngoài du lịch , vừa vừa thì cận tết mua sắm cho có lệ vì trong nhà có thiếu gì đâu , có lẽ tết có ý nghĩa hơn với người nghèo hoặc nhà còn ông bà hay người có tuổi luôn hướng nội .
Không khí tết trong cái nóng nực phía nam càng làm cho nhiều người nhớ cái tết ngày xưa , thiếu thốn khó khăn mà ấm cúng gia đình cùng hàng xóm bè bạn .Thời đó trong năm làm ăn mọi người đã có ý thức chuẩn bị cho tết , bố mẹ ông bà cố gắng làm ăn tích góp để đến tết cho ra tết ,con trẻ thì cố học hành, ngoan ngoãn sao cho đến tết được tấm áo hoa tiền mừng tuổi …còn ở nông thôn thì trồng vụ cây này hay nuôi đàn lợn này để đến tết , đám ruộng này trồng nếp cái , ao này tết đến hò nhau chung tay tát để có cá chép bày cỗ … Cứ muốn nhắc đến bao cái tết muôn thủa như : quây quần bên nồi bánh trưng , rồi tranh thủ nồi nước chế thêm nồi bánh tắm gội nhân thể trước giao thừa , thức đợi bố mẹ vớt bánh trưng và cho ăn trước( bánh trẻ con) trong cái rét căm căm và dặn : mai mùng một đi lại nhẹ nhàng nói năng nhỏ nhẹ ,sang nhà ai phải ngó ngàng không giông nhà người ta , không hô hố nói bậy giông cả năm , đợi cúng xong mới được ăn bốc bả là chết đấy … hồi ấy sao mà tin và vui thích lạ thường , mãi sau này lớn lên làm ăn khá giả những điều này cứ nhói trong tim mỗi khi tết về . Ngày ấy cái gì cũng để đến tết , con người sống với nhau hình như cũng tốt hơn nhằm để tết chúc nhau thấy ấm lòng , hay thứ tha cho nhau. Con cái ở xa không về cũng tằn tiện cả năm để gửi quà tết bố mẹ ông bà , có khi qua tết cả tháng mới nhận được hồi âm thư từ rằng : con hiếu thảo gửi quà làm bố mẹ ấm lòng chỉ ngắm không giám dùng, chỉ vậy thôi cũng sung sướng để làm ăn cố gắng hẹn tết sau ta về với bố mẹ … Mấy đứa đến tuổi cập kê ở quê thì được hứa cố mà làm ăn , tằn tiện tết này bố mẹ gả vợ dựng chồng cho rồi cho bụi tre đám đất sau nhà , làm nhà ra ở riêng .. nhưng phải đợi đến tết….. Tết có bao nhiêu điều phải làm .
Đời sống khá lên nhờ kinh tế thị trường nên tết cũng nhiều thay đổi , cuộc sống vật chất thực dụng làm phai nhạt các tập tục tết của ông bà , biết sao được khi ngày nào cũng mặc đẹp ăn ngon , cuốn hút thời gian vào mưu sinh , đua nhau mua xe đời mới rồi đi du lịch khắp trong ngoài nước ..ai mà còn nghĩ về quê tát ao , đụng nhau con lợn gói bánh đêm giao thừa ..có khi còn quên nhắc nhau dọn dẹp mồ mả ông bà , mời tổ tiên về ăn tết . Trải nghiêm cuộc sống hôm nay để nhớ mãi tết ngày xưa và sẽ ấm lòng cho những lớp người đã trải qua một thời gian khó để càng cảm thương bố mẹ ông bà đã sinh ra ta thời gian khó .
Mùng 8 tết Bính thân- Vũ Ngọc Thắng
O Cau Den la mot trong nam cua O cua HA Noi .Theo thoi gian no đa phai nhoa , ten cung nhu vi tri tren ban do khong con nua .Voi hoai niem cua mot thoi tre tho đa di khap HN , mong uoc duoc chia se voi nhieu nguoi cung yeu nam cua o cua HN .
Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016
VŨNG TẦU MẾN YÊU
Nhiều
người lứa tuổi tôi sinh ra ở đầu thập niên 50 của thế kỷ trước , lớn lên những ai được học hành đến nơi đến chốn thì phần
lớn là thành phần lý lịch “tiểu tư sản “ ở thành phố hay địa chủ nhỏ ở nông thôn – nghĩa là có đất tự cấy cày không
phải làm thuê . Không nói ra nhưng có gì đó trong sâu thẳm , bậc cha
chú ít khi kể về những năm tháng sống và làm việc trong xã hội người Pháp quản lý . như sau năm 54 ở miền Bắc mọi người không
thích nói tiếng Pháp mặc dù nói còn rất giỏi , mặc áo nâu sòng áo đại cán , đi
dép lốp cao su mà lại biết thắt cà vạt giỏi
hơn chúng tôi bây giờ hay hắt hơi cũng biết cà phê rang quá lửa , quần áo không
là lượt mà vẫn phẳng phiu dù chỉ là bộ cánh cũ rích thời khó khăn …Theo
dòng chảy lịch sử ,đất nước chia cắt rồi thống nhất
tôi vẫn rất ấn tượng về lớp tuổi như
bố mẹ tôi , sự hiểu biết về kiến trúc , văn hóa , trong
đó văn thơ hội họa và âm nhạc nổi lên
khiến một số người bị ảnh hưởng nhiều
mãi sau 1975 mới được công nhận và phục
hồi danh phận . Tiếng pháp đến cuối thập niên chín mươi , các cụ mới có dịp thể
hiện khi đất nước mở của và hội nhập trước sự ngỡ ngàng của bao lớp hậu sinh , học
tiếng Anh ba cấp mà chẳng nói được như các cụ ,khi trả lời bằng tiếng Pháp với
người Pháp . Sau này vài chục năm qua đi mọi người mới phần nào
nghiệm ra thời kỳ đó đất nước sinh ra tầng
lớp đàn ông chỉn chu hào hoa giỏi giang và tự lập khi còn rất trẻ , con
gái thì đoan trang nết na nhưng giỏi nội
trợ , đẻ nhiều con và dậy dỗ con nên người . Phải chăng đó tài sản trí tuệ của các bậc cha chú đã sinh ra lớp con cháu cùng họ tự vươn lên ,vượt
qua mỹ mãn các cuộc
trường trinh sau này .
Sau 30 năm sống và làm việc ở Vũng Tàu , gọi
là thành đạt hay không thì cũng xin phép
mạnh mồm “ tư duy trìu tượng” chia sẻ với
mọi người . Người Pháp đến VT và chọn chỗ
đẹp nhất để xây nhà thờ và các biệt thự nghỉ mát ở Bãi Trước , họ không chọn
Bãi Sau để xây dựng mà chỉ để nguyên sơ
làm bãi tắm , bao nhiêu năm về sau thời Hoa Kỳ cũng ứng sử như vậy . Có lẽ họ sợ
sóng biển Đông đánh thẳng vào bãi Sau nên để nguyên cắc cồn cát chắn sóng , hay
lời nguyền phong thủy gì đây ? còn bãi trước yên ả chỉ có sóng của của sông Sài gòn thổi vào nhè nhẹ
, nếu có sóng bạc đầu tí chút thì
mãi ở mỏm Nghinh Phong . Bây giờ thực tế cảnh quan VT thế nào thìết nghĩ không cần nhắc lại . Qua những năm tháng trải
nghiệm ở VT và được đi đây đó mới nhận ra Vũng Tàu giống Đồ
Sơn , Đà Lạt giống Sa Pa Tam Đảo , nhà
thờ lớn Hà Nội cũng tương đồng nhà thờ lớn Sài Gòn rồi nhà thờ Đà lạt Vũng Tàu …. Và còn nhiều địa danh mà người Pháp khám
phá đặt tên đang tồn tại khắp nơi đến tận
bây giờ . Có lẽ Người Pháp khai thác triệt
để cảnh quan , khí hậu , đia chất của Việt Nam mình để thỏa mãn nhu cầu hưởng
thụ nghỉ dưỡng của họ Khi sang sứ mình , nghĩa là danh lam thắng cảnh , địa
danh du lịch …phần lớn do người Pháp định
hình cách nay hàng thế kỷ . Lan man vậy để xuy nghĩ rằng có chăng Người
Anh ( người Mỹ sau này ) để lại ở vùng đất đó một nền kinh tế phát triển
có chất tư bản hơn người Pháp , nghĩa là có con người học và hành thực tế hơn người dân quản lý làm kinh tế
tốt hơn và khá giả hơn nơi người Pháp bước
chân đến .
Vũng Tàu
sau 75 vẫn nghèo và hoang sơ , ngư nghiệp và nông nghiệp chỉ tự cung tự cấp cho
số dân ít ỏi sinh sống nơi đây cùng lượng khách du lịch cũng ít ỏi .Chỉ khi ngành dầu khí bắt đầu chọn VT làm thủ
phủ cho ngành công nghiệp hái ra tiền, Vũng Tàu bắt đầu thay đổi dưới bàn tay của chính người Việt
Nam chúng ta . Sau bao nhiêu năm , kể từ lúc người pháp gọi vũng Tàu là cap saint jacques rồi thời Mỹ người ta xây vài khách sạn ở bãi trước ,Vũng
Tàu không có cơ sở gì lớn và đặc trưng . Cũng chính vì sự phát triển nghèo nàn
chậm chạp nên vũng đất này còn giữ
nguyên cho mình nét đẹp hoang sơ tuyệt vời hiếm có .
Nhiều người sau nhiều năm sống ở VT , mải làm ăn mưu sinh cũng không nhận ra
điều này , khi có của ăn của để cộng với sự phát triển thay đổi của Vũng tầu, mới cảm nhận được mảnh đất ta
đang sống và làm việc đẹp và trong lành biết nhường nào . Không phải ai cũng biết
Bà Rịa Vũng Tàu là vùng đất linh thiêng có nhiều địa danh mang tên rồng ( Long)
: Long Điền, Long Hải , Long Sơn , Long Đất , Long Hương xa hơn cùng ảnh hưởng
địa lý còn có Long Thành , Long Phước …VV . Nó gợi trong bất cứ ai đã từng sống ở Vũng Tàu những suy
nghĩ yêu thương đến dằn vặt về vùng đất này , con người bản địa hiền lành quanh
năm trồng trọt , chăn nuôi , buôn bán nhỏ và thuyền ghe đánh cá mưu sinh . Họ
chăm chỉ đi nhà thờ cầu nguyện cũng như bên lương hương khói ngày dằm mùng một
. Thăng trầm hàng nửa thế kỷ khi đất nước thống nhất bao người tứ sứ về đây lập
nghiệp , dân số tăng dần mảnh đất này mở lòng đón nhận và chuyển mình phát triển
biết bao nhiêu … Nhiều khi sao lòng vì một mùa biển động ghe thuyền đậu giăng
Bãi Trước , khách du lịch cuối tuần đông vui thả bộ, ngắm biển ngắm thuyền ấm lòng trong cái buồn mất ngày
biển của ngư dân thuyền chài. Có sao đâu
nếu ghé xóm Lưới , bến Đình Bến Đá … Đàn
bà con trẻ ồn ào nhặt chọn cá để phơi và chế biến còn đàn ông tranh thủ sửa chữa ngư cụ và giành thời gian tụ
tập lai rai , thỉnh thoảng lại rống lên tranh luận hay thả giọng một câu vọng cổ
nói về biển khơi .. mặc dù cuộc nhậu xóm thuyền chỉ là rượu đế nhạt vài đĩa khô
sặt chấm mắm me … cái ồn ào sôi nổi của xóm thuyền hòa vào mùi cá phơi mùi của
biển , mồ hôi của ngư dân tạo nên một cảnh sắc nhiều chiều không ở đâu có được
, là tình người là cần cù , là xóm riềng
họ hàng bao đời vẫn vậy dù thời vận mấy
chục năm không làm họ thay đổi nhiều như những người từ nơi khác đến và làm những
việc khác họ nhất là dân dầu khí . Viết
như vậy mới thấy rằng bao nhiêu biệt thự đẹp , nhà phố các kiểu được mọc lên sau này rồi lại
phá đi xây lại khi thấy lỗi mốt ( hoặc có nhiều tiền) rồi cũng qua đi ít ghi lại trong
nỗi nhớ về Vũng Tàu , trong khi xóm thuyền chài vẫn không thay đổi bao
nhiêu mặc dù nhà thờ , chùa chiền ,cổ tự
phần lớn là do thứ dân mến yêu này xây đắp
bao đời và đến bây giờ họ văn chăm chút giữ gìn để mọi người tứ sứ đến du lịch thăm viếng , thả lòng . Ai lần đầu
đến Vũng Tàu chả ghé Thích ca phật đài , niết bàn Tịnh xá , hay linh sơn cổ tự
, đình Tam Thắng … xa hơn là nhà lớn
Long Sơn ,dinh cô Long Hải …rồi tượng chúa rang tay ,ngắm nhà thờ VT nhà thờ bến
đá….Chẳng gì lung linh hay rung động khi ngắm căn nhà riêng mới xây hay chiếc
xe đời mới mới của người chủ nào đó thành đạt mới đổi. Người ta cứ nhớ ngày xưa
ngày trước rồi dằn lòng yêu mảnh đất này
, con người bản địa nơi đây .
Năm tháng qua đi
, thành phố hiện đại dần lên cảnh quan đã khác trước nhiều , phố phường quán xá
nhà hàng đông vui mà có cảm giác con người ít cười đi và có phần khỉnh khỉnh nhạt
nhẽo , ăn mặc cũng sang trọng khệnh khạng ít nhiều .. bọn trẻ mới lớn thì xanh
đỏ từ đầu xuống chân , ẻo lẻo tay lướt smartphone . Cảnh mới người mới , đôi người cứ thích đến xóm lưới thuyền chài dù răng bây giờ có
nhai được khô sặt đâu , hít hà và rưng rung nghe anh hai thuyền chài ( thế hệ
sau) vẫn rống vô tư rồi thả lòng câu hát ngày xưa .
Vũng Tàu ngày cuối năm - Tháng chạp Ất Mùi
Nhãn:
Vung Tàu mến yêu
QUÁN XÁ VŨNG TÀU.
Có mặt ở VT cuối năm 1985 . Sau 30 năm nhìn lại cảm súc lại dâng trào , khi thanh thản nhẹ lòng cứ muốn viết ra chia sẻ với chính mình với bè bạn , người thân . Hai năm nghỉ ngơi nhàn nhã yên lành càng làm bùng lên những kỷ niệm , những dấu mốc mình đã đi qua trên mảnh đất VT thân yêu .
Bay từ HN vào trên chuyến TU 154 (của Liên Xô cũ) vào TP Hồ Chí Minh , mò mẫm ra bến xe Hàng Xanh ( nay không còn ) mình về Vũng Tàu trên chuyến xe đò chạy than . Xe chay như bò và nghỉ nhiều chặng để nhà xe kều than và tiếp than tiếp nước - làm mát máy , mình ngồi sau nên vừa ngửi mùi than và tàn tro thỉnh thoẳng lại bay vào mắt cay sè .Qua cầu Sài Gòn nhìn xa lộ Biên Hòa rộng lớn (sa lộ HN bây giờ ) , thấy ống khói xi măng có si lô trộn Xi măng cao và to khủng khiếp mình đã cảm nhận được một nền sản xuất lớn phía Nam so với sự nghèo nàn của miền Bắc lúc ấy . Đến Long Thành xe dừng nghỉ tiếp than hành khách nghỉ ngơi và mua chôm chôm ,măng cụt …trong cánh rừng cao su bạt ngàn , hoang sơ làm mình sững sờ và nhớ mãi bởi vì lần đầu tiên nhìn thấy rừng cao su . Về sau này mỗi khi qua các cánh rừng cao su ở Tây Ninh , Xuân Lộc …mình càng nhớ về cánh rừng cao su Long Thành , nơi bán chôm chôm hoa quả nay đã thành phố . Xe đò than còn dừng ở Tân Thành để khách mua bánh bao 999 , dừng ở gần thị xã Bà Rịa cho dân địa phương ào quanh xe chào mời mua mãng cầu (na) Nghe nói mình mới biết đây là vùng có sản vật mãng cầu ngon nhất miền Nam ( ngon giống như quả na ở Chi Lăng , Đồng mỏ Lạng Sơn ở miền Bắc ).Qua cầu Cỏ May chị đồng hành trên xe có nói : anh người bắc vô đây khi nào xe chạy qua chỗ có mùi mắm , mùi cá thối ( ngư dân phơi cá ươn làm thức ăn gia súc) là sắp đến thành phố Vũng Tàu đấy . Bây giờ Vũng Tàu ít mùi cá phơi , nhưng cảm giác cái mùi đó theo ta suốt những năm tháng khó khăn và phồn vinh của mảnh đất này , trà dư tửu hậu tôi vẫn gọi đó là “mùi Vũng Tàu” .
Nhớ phút đặt chân đầu tiên đến Vũng Tàu , con gái đầu ( mới 5 tuổi ở nhà với bà nội ,vào VT trước mình) dẫn mình đi thăm thú phố xá , bố chở con trên xe đạp và bảo con chỉ đường ra biển , con chỉ thế nào mà hai bố con đạp ra tận Bến Đình cũng không thấy biển , hỏi đường mãi mới ra tới Bãi Trước nơi có quán xá , nhà hàng nằm dưới hàng dừa , hàng cây bàng già nằm sát bờ biển tuyệt đẹp . Hai bố con uống nước dừa và đá chanh vừa lạ lẫm nhưng thật ấn tượng .
Vũng Tàu lúc bấy giờ vắng vẻ , cả đặc khu VT-CĐ ( sau đổi là tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ) chưa đến nửa triệu người ,phương tiên trên đường chủ yếu là xe đạp thỉnh thoảng có vài chiếc xe máy cũ là xe Hon đa 67 , Dam , lambetta….. của dân chủ ghe có máu mặt . Người dân chủ yếu dùng xe đạp ,xe lam ba bánh và xích lô để chuyên chở hàng hóa và người . Phố xá đông vui khi tan tầm có xe buýt của cán bộ công nhân dầu khí chạy nhộn nhịp đưa đón khắp các nẻo đường nội ô và ven ô thành phố Vũng Tàu ,vì lúc đó cán bộ công nhân viên ở trọ trong nhà dân và các khách sạn chưa có các khu tập thể dầu khí , và nhà riêng như bây giờ .
Người bản địa và người ngụ cư làm dầu khí lúc đó sống bình lặng , cần cù lao động , sau đổi tiền 1985 cuộc sống vẫn trăm bề thiếu thốn . Hai từ ăn nhậu lúc này thật xa lạ , quán xá ăn nhậu gần như không có trừ các khách sạn palase , rex , grand , Pacific ,Hạ Long (cạnh nhà thờ VT) , Sông Hồng có bán bia rượu và vài món cố hữu mà dân thường , cán bộ bậc trung hầu như không giám bến mảng trừ khi vào ăn kem hay uống đá chanh , cà phê nhân ngày lễ hay chủ nhật
Vũng Tàu thời gian này không khí không oi ả như bây giờ mặc dù cúp điện liên miên , nước ăn sinh hoạt chủ yếu là giếng đóng , nhà nào có quạt cây quạt trần được cho là khá giả còn không nhà cấp bốn mở toang cửa , quạt tay mà ngủ là bình thường cho nhiều người dân , tuy nhiên cuộc sống thật yên lành trôi qua như bản chất của con người lúc nghèo dễ chia sẻ thương yêu . Quán xá nghèo nàn vì kinh tế bao cấp èo uột vẫn hiện diên trong đời sống hàng ngày , cả thành phố có hai ba quán phở có từ trước 75 ( quán phở Thiện Lợi , Thủy Nguyên – vẫn nằm trên đường Ba Cu bây giờ và quán phở Quê Hương ở gần ngã tư Giếng Nước ) sau chút có thêm quán phở Lò Đúc , phở Hà Nội (cuối đường Trương công Định và ở đường Trần Hưng Đạo) các hàng phở này chủ là người Bắc sau giải phóng vào lập nghiệp . Còn nhớ vài hàng cơm từ trước giải phóng vẫn còn tồn tại đến bây giờ : tiệm cơm Lăng ký ,Hưng ký , Thuận ký , Hợp Thành tọa lạc ở quanh chợ cũ (Trưng Chắc , Trưng Nhị ) , thực khách của các nhà hàng này chủ yếu là dùng cơm trưa chiều tuyệt nhiên bia rượu gần như không có nên không có chuyện ăn nhậu ở đây . Lúc thời buổi khó khăn dưới phường Rạch Rừa có hàng thịt chó bảng hiệu Mười Hương do người Bắc di cư 54 làm chủ , lúc nào cũng đông khách còn phường Thắng Nhất có hàng thủy sản Ngọc Thủy (có món cua rang muối nổi tiếng một thời) mà nghe đâu ngày trước tướng tá ngụy ham ghé mỗi lần đến Vũng Tàu , quán ăn nhanh có hàng bánh mỳ Thi Thi lúc nào cũng nườm nượp do gần như là duy nhất ở đường Đồ Chiểu vả cả thành phố VT . Ngoài chẳng có nhiều đặc sản địa phương nhưng phải kể đến nhà hàng bánh bèo Tuyết Mai và bánh khọt cây vú sữa, quán Cây Bàng ngoài Bãi Dâu ,quán gỏi cá Mai cá trích phố Lê Lai .Thăng trầm theo thời gian quán còn quán mất các nhà hàng quán xá phải canh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển . Bức tranh quán xá Vũng tàu thời kỳ cuối 1985 là như thế , tất nhiên còn có quán cóc ở bãi sau và các chợ nhỏ có trong thành phố , cả gánh hàng rong , mỳ gõ … Chỉ còn là hoài niệm của thế hệ chúng tôi .
Mình nhớ mãi Quán chè Cây Táo ở đường Phạm Hồng Thái , chỉ khi dư giả hay thưởng cho con học có thành tích mọi người mới giám đến đây thưởng thức món chè các loại , mùi vị thật ngon hay do đói khổ lúc ấy nên ăn vào miệng thấy hả hê lạ thường , khiến mọi người hay nhắc đến chè Cây Táo đến tận bây giờ . Bạn bè người thân gặp nhau mời nhau đi ăn phở Quê Hương ( cho cả giò lụa vào phở ) là một sự hoang phí vung tay thời đó . Khách du lịch người từ nơi khác đến ai cũng ghé chợ cũ Vũng Tàu có dãy phố chợ cũ , hàng quán chẳng có nhiều sản vật ngoài vòng ốc lưu niệm và mắm ruốc hiệu “Bà giáo Thảo” Bến Đình nổi tiếng khắp vùng , nay cũng vắng bóng thời thị trường vì không canh tranh được với thủ phủ mắm Châu Đốc miền Tây , mắm Huế ….vvv
Đầu thập niên 90 , kinh tế cả nước khởi sắc nhất là thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu , người làm dầu khí có phần trội hơn các ngành khác trong đó Vietsovpetro bắt đầu trả lương bằng USD (duy nhất cả nước lúc ấy ) . Cuộc sống lên hương và quán xá nhà hàng cũng theo nhu cầu và thu nhập khá của dân dầu khí mà mở ra phát triển nhanh chóng .Thời kỳ dân dầu khí biết đến bào ngư , cơm cháy hải sâm , tôm sú hấp bia , ghẹ rang me rồi tôm hùm cá mú ăn sống … bắt đầu có trong thực đơn của nhà hàng Huê Anh , Nam Phát , Hữu Nghị . Liên hoan , tổng kết các ban ngành và dân dầu khí Vũng Tàu phần lớn đều tổ chức ăn nhậu ở vài nhà hàng trên . Tiếp sau các món Nga du nhập dân Vũng tầu thưởng thức thit nướng, salat kiểu Nga ở loạt nhà hàng mọc lên( đối diện khu năm tầng ) , nay còn lại quán Vườn Bàng cũng bắt đầu ít khách trong khi quán Tê giác (nằm trên đường Lê Hồng Phong) vẫn duy trì phát triển vì món ăn còn nhiều chất Nga .
Ngày nay Vũng Tàu thay da đổi thịt phạm vi viết bài này không thể kể hết chỉ biết rằng khi con đường Hạ Long ven biển mở ra cảnh quan và các cơ sở du lịch làm bộ mặt VT đẹp nức lòng nhiều thế hệ già trẻ trong nước và kiều bào . Đến Vũng Tàu bằng tàu thủy cánh ngầm , xe tốc hành hạng sang chạy vào thành phố qua đường 51B, 51C , 30 tháng tư hiện đại . giữa làn đường đôi là hàng cây hoa cỏ rực rỡ như đón chào khách đến và đi và tất nhiên sẽ không còn ngửi thấy mùi cá phơi tanh nồng ,không nhìn thấy các chuyến xe than lầm lũi ngày xưa . Khi ven phố cũ xuất hiện đường lê Hồng Phong , Nguyễn An Ninh , Thống nhất mới thì biết bao nhà hàng quán xá mọc lên , do nền công nghiệp bia rượu cả nước phát triển phi mã gần như nhất Đông Nam á . Vũng Tàu hòa theo su thế phát triển , người xe nườm nượp , ì ào hò reo mỗi chiều cho đến khuya vì ăn nhậu . Không ai có thể thống kê hết nhà hàng quán xá có ở VT , chắc phải là hàng ngàn không kể khu vui chơi khách sạn cũ mới quanh năm đón khách thập phương . Ngẫm vui hay buồn khi các quán xá xưa ( có đếm trên đầu ngón tay ) bao đời chủ , còn mất được thua trong trong thời buổi này ? dù sao nhiều người ta vẫn nhớ bởi đó là kỷ niệm là nét xưa của ngày xưa nó là chứng nhân cho sự phát triển của Vũng Tàu 40 năm sau giải phóng .
Đến hôm nay nhiều người Vũng tàu đã giầu có , có nhà cửa biệt thư khang trang , xe hơi đời mới ,con cái du học trưởng thành .. Người thời đi xe than ngửi mùi cá ươn phơi , giờ cũng khật khưỡng béo tốt , uống rượu ngoại ăn nhỏ nhẹ ..tập thể thao chơi gôn , quần vợt … Những ngày đầu khó khăn , éo le mưu sinh ai cũng trải qua khi đã là công dân của Vũng Tàu , viết ra những hoài niệm xưa như muốn nhắc hãy luôn yêu thương và trân trọng mảnh đất này .
Vũng Tàu ngày 28. 12. 2015.
Mong những ai yêu VT cùng chia sẻ thông tin về VT . Trân trọng
Bay từ HN vào trên chuyến TU 154 (của Liên Xô cũ) vào TP Hồ Chí Minh , mò mẫm ra bến xe Hàng Xanh ( nay không còn ) mình về Vũng Tàu trên chuyến xe đò chạy than . Xe chay như bò và nghỉ nhiều chặng để nhà xe kều than và tiếp than tiếp nước - làm mát máy , mình ngồi sau nên vừa ngửi mùi than và tàn tro thỉnh thoẳng lại bay vào mắt cay sè .Qua cầu Sài Gòn nhìn xa lộ Biên Hòa rộng lớn (sa lộ HN bây giờ ) , thấy ống khói xi măng có si lô trộn Xi măng cao và to khủng khiếp mình đã cảm nhận được một nền sản xuất lớn phía Nam so với sự nghèo nàn của miền Bắc lúc ấy . Đến Long Thành xe dừng nghỉ tiếp than hành khách nghỉ ngơi và mua chôm chôm ,măng cụt …trong cánh rừng cao su bạt ngàn , hoang sơ làm mình sững sờ và nhớ mãi bởi vì lần đầu tiên nhìn thấy rừng cao su . Về sau này mỗi khi qua các cánh rừng cao su ở Tây Ninh , Xuân Lộc …mình càng nhớ về cánh rừng cao su Long Thành , nơi bán chôm chôm hoa quả nay đã thành phố . Xe đò than còn dừng ở Tân Thành để khách mua bánh bao 999 , dừng ở gần thị xã Bà Rịa cho dân địa phương ào quanh xe chào mời mua mãng cầu (na) Nghe nói mình mới biết đây là vùng có sản vật mãng cầu ngon nhất miền Nam ( ngon giống như quả na ở Chi Lăng , Đồng mỏ Lạng Sơn ở miền Bắc ).Qua cầu Cỏ May chị đồng hành trên xe có nói : anh người bắc vô đây khi nào xe chạy qua chỗ có mùi mắm , mùi cá thối ( ngư dân phơi cá ươn làm thức ăn gia súc) là sắp đến thành phố Vũng Tàu đấy . Bây giờ Vũng Tàu ít mùi cá phơi , nhưng cảm giác cái mùi đó theo ta suốt những năm tháng khó khăn và phồn vinh của mảnh đất này , trà dư tửu hậu tôi vẫn gọi đó là “mùi Vũng Tàu” .
Nhớ phút đặt chân đầu tiên đến Vũng Tàu , con gái đầu ( mới 5 tuổi ở nhà với bà nội ,vào VT trước mình) dẫn mình đi thăm thú phố xá , bố chở con trên xe đạp và bảo con chỉ đường ra biển , con chỉ thế nào mà hai bố con đạp ra tận Bến Đình cũng không thấy biển , hỏi đường mãi mới ra tới Bãi Trước nơi có quán xá , nhà hàng nằm dưới hàng dừa , hàng cây bàng già nằm sát bờ biển tuyệt đẹp . Hai bố con uống nước dừa và đá chanh vừa lạ lẫm nhưng thật ấn tượng .
Vũng Tàu lúc bấy giờ vắng vẻ , cả đặc khu VT-CĐ ( sau đổi là tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ) chưa đến nửa triệu người ,phương tiên trên đường chủ yếu là xe đạp thỉnh thoảng có vài chiếc xe máy cũ là xe Hon đa 67 , Dam , lambetta….. của dân chủ ghe có máu mặt . Người dân chủ yếu dùng xe đạp ,xe lam ba bánh và xích lô để chuyên chở hàng hóa và người . Phố xá đông vui khi tan tầm có xe buýt của cán bộ công nhân dầu khí chạy nhộn nhịp đưa đón khắp các nẻo đường nội ô và ven ô thành phố Vũng Tàu ,vì lúc đó cán bộ công nhân viên ở trọ trong nhà dân và các khách sạn chưa có các khu tập thể dầu khí , và nhà riêng như bây giờ .
Người bản địa và người ngụ cư làm dầu khí lúc đó sống bình lặng , cần cù lao động , sau đổi tiền 1985 cuộc sống vẫn trăm bề thiếu thốn . Hai từ ăn nhậu lúc này thật xa lạ , quán xá ăn nhậu gần như không có trừ các khách sạn palase , rex , grand , Pacific ,Hạ Long (cạnh nhà thờ VT) , Sông Hồng có bán bia rượu và vài món cố hữu mà dân thường , cán bộ bậc trung hầu như không giám bến mảng trừ khi vào ăn kem hay uống đá chanh , cà phê nhân ngày lễ hay chủ nhật
Vũng Tàu thời gian này không khí không oi ả như bây giờ mặc dù cúp điện liên miên , nước ăn sinh hoạt chủ yếu là giếng đóng , nhà nào có quạt cây quạt trần được cho là khá giả còn không nhà cấp bốn mở toang cửa , quạt tay mà ngủ là bình thường cho nhiều người dân , tuy nhiên cuộc sống thật yên lành trôi qua như bản chất của con người lúc nghèo dễ chia sẻ thương yêu . Quán xá nghèo nàn vì kinh tế bao cấp èo uột vẫn hiện diên trong đời sống hàng ngày , cả thành phố có hai ba quán phở có từ trước 75 ( quán phở Thiện Lợi , Thủy Nguyên – vẫn nằm trên đường Ba Cu bây giờ và quán phở Quê Hương ở gần ngã tư Giếng Nước ) sau chút có thêm quán phở Lò Đúc , phở Hà Nội (cuối đường Trương công Định và ở đường Trần Hưng Đạo) các hàng phở này chủ là người Bắc sau giải phóng vào lập nghiệp . Còn nhớ vài hàng cơm từ trước giải phóng vẫn còn tồn tại đến bây giờ : tiệm cơm Lăng ký ,Hưng ký , Thuận ký , Hợp Thành tọa lạc ở quanh chợ cũ (Trưng Chắc , Trưng Nhị ) , thực khách của các nhà hàng này chủ yếu là dùng cơm trưa chiều tuyệt nhiên bia rượu gần như không có nên không có chuyện ăn nhậu ở đây . Lúc thời buổi khó khăn dưới phường Rạch Rừa có hàng thịt chó bảng hiệu Mười Hương do người Bắc di cư 54 làm chủ , lúc nào cũng đông khách còn phường Thắng Nhất có hàng thủy sản Ngọc Thủy (có món cua rang muối nổi tiếng một thời) mà nghe đâu ngày trước tướng tá ngụy ham ghé mỗi lần đến Vũng Tàu , quán ăn nhanh có hàng bánh mỳ Thi Thi lúc nào cũng nườm nượp do gần như là duy nhất ở đường Đồ Chiểu vả cả thành phố VT . Ngoài chẳng có nhiều đặc sản địa phương nhưng phải kể đến nhà hàng bánh bèo Tuyết Mai và bánh khọt cây vú sữa, quán Cây Bàng ngoài Bãi Dâu ,quán gỏi cá Mai cá trích phố Lê Lai .Thăng trầm theo thời gian quán còn quán mất các nhà hàng quán xá phải canh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển . Bức tranh quán xá Vũng tàu thời kỳ cuối 1985 là như thế , tất nhiên còn có quán cóc ở bãi sau và các chợ nhỏ có trong thành phố , cả gánh hàng rong , mỳ gõ … Chỉ còn là hoài niệm của thế hệ chúng tôi .
Mình nhớ mãi Quán chè Cây Táo ở đường Phạm Hồng Thái , chỉ khi dư giả hay thưởng cho con học có thành tích mọi người mới giám đến đây thưởng thức món chè các loại , mùi vị thật ngon hay do đói khổ lúc ấy nên ăn vào miệng thấy hả hê lạ thường , khiến mọi người hay nhắc đến chè Cây Táo đến tận bây giờ . Bạn bè người thân gặp nhau mời nhau đi ăn phở Quê Hương ( cho cả giò lụa vào phở ) là một sự hoang phí vung tay thời đó . Khách du lịch người từ nơi khác đến ai cũng ghé chợ cũ Vũng Tàu có dãy phố chợ cũ , hàng quán chẳng có nhiều sản vật ngoài vòng ốc lưu niệm và mắm ruốc hiệu “Bà giáo Thảo” Bến Đình nổi tiếng khắp vùng , nay cũng vắng bóng thời thị trường vì không canh tranh được với thủ phủ mắm Châu Đốc miền Tây , mắm Huế ….vvv
Đầu thập niên 90 , kinh tế cả nước khởi sắc nhất là thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu , người làm dầu khí có phần trội hơn các ngành khác trong đó Vietsovpetro bắt đầu trả lương bằng USD (duy nhất cả nước lúc ấy ) . Cuộc sống lên hương và quán xá nhà hàng cũng theo nhu cầu và thu nhập khá của dân dầu khí mà mở ra phát triển nhanh chóng .Thời kỳ dân dầu khí biết đến bào ngư , cơm cháy hải sâm , tôm sú hấp bia , ghẹ rang me rồi tôm hùm cá mú ăn sống … bắt đầu có trong thực đơn của nhà hàng Huê Anh , Nam Phát , Hữu Nghị . Liên hoan , tổng kết các ban ngành và dân dầu khí Vũng Tàu phần lớn đều tổ chức ăn nhậu ở vài nhà hàng trên . Tiếp sau các món Nga du nhập dân Vũng tầu thưởng thức thit nướng, salat kiểu Nga ở loạt nhà hàng mọc lên( đối diện khu năm tầng ) , nay còn lại quán Vườn Bàng cũng bắt đầu ít khách trong khi quán Tê giác (nằm trên đường Lê Hồng Phong) vẫn duy trì phát triển vì món ăn còn nhiều chất Nga .
Ngày nay Vũng Tàu thay da đổi thịt phạm vi viết bài này không thể kể hết chỉ biết rằng khi con đường Hạ Long ven biển mở ra cảnh quan và các cơ sở du lịch làm bộ mặt VT đẹp nức lòng nhiều thế hệ già trẻ trong nước và kiều bào . Đến Vũng Tàu bằng tàu thủy cánh ngầm , xe tốc hành hạng sang chạy vào thành phố qua đường 51B, 51C , 30 tháng tư hiện đại . giữa làn đường đôi là hàng cây hoa cỏ rực rỡ như đón chào khách đến và đi và tất nhiên sẽ không còn ngửi thấy mùi cá phơi tanh nồng ,không nhìn thấy các chuyến xe than lầm lũi ngày xưa . Khi ven phố cũ xuất hiện đường lê Hồng Phong , Nguyễn An Ninh , Thống nhất mới thì biết bao nhà hàng quán xá mọc lên , do nền công nghiệp bia rượu cả nước phát triển phi mã gần như nhất Đông Nam á . Vũng Tàu hòa theo su thế phát triển , người xe nườm nượp , ì ào hò reo mỗi chiều cho đến khuya vì ăn nhậu . Không ai có thể thống kê hết nhà hàng quán xá có ở VT , chắc phải là hàng ngàn không kể khu vui chơi khách sạn cũ mới quanh năm đón khách thập phương . Ngẫm vui hay buồn khi các quán xá xưa ( có đếm trên đầu ngón tay ) bao đời chủ , còn mất được thua trong trong thời buổi này ? dù sao nhiều người ta vẫn nhớ bởi đó là kỷ niệm là nét xưa của ngày xưa nó là chứng nhân cho sự phát triển của Vũng Tàu 40 năm sau giải phóng .
Đến hôm nay nhiều người Vũng tàu đã giầu có , có nhà cửa biệt thư khang trang , xe hơi đời mới ,con cái du học trưởng thành .. Người thời đi xe than ngửi mùi cá ươn phơi , giờ cũng khật khưỡng béo tốt , uống rượu ngoại ăn nhỏ nhẹ ..tập thể thao chơi gôn , quần vợt … Những ngày đầu khó khăn , éo le mưu sinh ai cũng trải qua khi đã là công dân của Vũng Tàu , viết ra những hoài niệm xưa như muốn nhắc hãy luôn yêu thương và trân trọng mảnh đất này .
Vũng Tàu ngày 28. 12. 2015.
Mong những ai yêu VT cùng chia sẻ thông tin về VT . Trân trọng
Nhãn:
Vũng Tàu mến yêu
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)